Tổng thể Khu di tích lịch sử gồm 2 nơi chính: chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc.
1. Khu vực chùa Côn Sơn
Chùa Côn Sơn: tên Nôm là chùa Hun, tên chữ là Thiên Tư Phúc tự, Tư Phúc tự, Côn Sơn tự, được xây dựng từ thế kỷ XIV, đã qua nhiều lần trùng tu. Các hạng mục kiến trúc chính của chùa lúc này gồm: hồ bán nguyệt, tam quan, sân trước, tiền đường (5 gian, 2 chái), thiêu hương (3 gian), thượng điện (3 gian), nhà Tổ, điện Mẫu, vườn tháp, nhà bia, cùng một vài hạng mục phụ trợ khác…
Tả, hữu hậu hiên chạy dài: hai dãy tả, hữu hậu hiên chạy dài dài 75,13m, rộng 3,86m, mỗi bên gồm 29 gian.
Thanh Hư động: nằm tại phía Tây Bắc núi Côn Sơn. Đó là một thung lũng, được bao quanh bởi núi Côn Sơn và núi Ngũ Nhạc, giữa là suối Côn Sơn. Thanh Hư động có nhiều dự án công trình kiến trúc nổi tiếng, gắn với một vài danh nhân, hiền sĩ thời Trần và thời Lê, như nhà tại của Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán, cầu Thấu Ngọc, nền nhà Nguyễn Trãi, bàn đá, suối Côn Sơn…
Đền thờ Nguyễn Trãi: Khu đền xuất hiện 15 hạng mục dự án công trình. Đền chính rộng 200m2, mặt phẳng kiến trúc dạng chữ Công.
Đền thờ Trần Nguyên Đán: Đền được dựng trên mặt phẳng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm bái đường và hậu cung. Kiến trúc bái đường gồm 2 tầng, 8 mái. Hậu cung là nơi đặt tượng Trần Nguyên Đán, được đúc bằng đồng đúc. Cạnh đền thờ là dấu tích nền nhà cũ của quan Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán, hiện được bảo tồn nguyên trạng.
Núi Ngũ Nhạc: là dãy núi xoải dài từ Bắc xuống Nam, với chiều dài hơn nữa 4km, gồm xuất hiện 5 đỉnh. Đỉnh điểm nhất khoảng 238m, nằm về phía Đông Bắc của dãy Côn Sơn. Các ngôi đền/miếu ở đây đều được xây dựng lộ thiên, bằng các khối đá xanh…
Bàn cờ tiên: đỉnh Côn Sơn là một nơi khá phẳng phiu. Tương truyền, từ thời Trần, Pháp Loa Tôn giả – tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm, đã lập một bàn cờ tại vị trí này, tục gọi là Bàn cờ Tiên. Hiện nay, tại nơi này mới dựng thêm một nhà bia, theo phong cách vọng lâu, với 2 tầng, 8 mái.
Đăng Minh bảo tháp: giữa hai trung tâm vườn tháp, ở phía trên giếng Ngọc, là Đăng Minh bảo tháp – tháp Tổ Huyền Quang, vị Tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm. Sau khi Tổ Huyền Quang viên tịch tại chùa Côn Sơn (1334), tháp mộ của ông được dựng ở vị trí này. Đăng Minh bảo tháp lúc này được dựng lại trên nền tháp cũ, trên bình đồ rộng 8,40m, dài 7,78m, gồm 3 tầng, cao khoảng 6m, được ghép bởi những phiến đá hình hộp chữ nhật.
Hồ Côn Sơn: xuất hiện diện tích quy hoạnh 43 nghìn mét vuông, với sức chứa hàng trăm ngàn mét khối nước. Bao vòng quanh hồ là mạng lưới hệ thống đường dạo bước, chậu cây cảnh.
Suối Côn Sơn: Bắt nguồn từ hai dãy núi Côn Sơn và Ngũ Nhạc, dài khoảng 3km, uốn lượn tạo thành nhiều ghềnh, thác sau đó nhau, rồi đổ vào hồ Côn Sơn.
2. Khu vực đền Kiếp Bạc
Đền Kiếp Bạc: tức đền thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo vương từ), còn được nghe biết với những tên thường gọi khác, như đền Kiếp, đền Vạn Kiếp, đền Trần Hưng Đạo. Đền được xây dựng ở trung tâm của thung lũng Kiếp Bạc, trên một khu đất nền xuất hiện diện tích quy hoạnh khoảng 13.5km2. Đền quay về phía Tây Nam, nhìn ra sông Lục Đầu, gồm các hạng mục kiến trúc: trạm hạ mã, đường thần đạo, nghi môn, sân đền, tả hữu thành các, giếng mắt rồng, tắc môn, nhà giải vũ, đền chính. Đền chính được dựng theo mô hình “tiền nhất, hậu đinh”, gồm tiền tế, trung từ và hậu cung.
Sinh từ: cách đền Kiếp Bạc 800m về phía Đông Bắc. Để ghi nhớ công lao to lớn của Hưng Đạo vương, vua Trần Nhân Tông đã cho xây dựng đền thờ ngay trong khi Hưng Đạo vương còn sống, nên người ta gọi là Sinh từ. Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã đích thân viết văn bia mệnh danh công lao của Hưng Đạo Vương. Đến nay, Sinh từ chỉ còn sót lại phế tích.
Đền Nam Tào: thờ quan Nam Tào, cách đền Kiếp Bạc 500m về phía Tây Nam, thuộc thôn Dược Sơn. Kiến trúc này được xây dựng trên một khu vực thoáng, với diện tích quy hoạnh trên 2km2, gồm các thành phần kiến trúc: trụ biểu, tam quan, gác chuông, gác trống, tả hữu hiên chạy dài, đền chính và hậu đường.
Đền Bắc Đẩu: thờ quan Bắc Đẩu, được xây dựng trên đỉnh núi Bắc Đẩu, trong một khu vực thông thoáng, gồm các hạng mục: nghi môn, gác chuông, gác trống, tả hữu hiên chạy dài, đền chính, hậu đường và một vài dự án công trình phụ trợ khác…
Vườn Dược Sơn: tức Dược lĩnh cổ viên. Tương truyền, đó là vườn thuốc Nam, do Trần Hưng Đạo trồng trên núi Dược Sơn, nay thuộc thôn Dược Sơn, xã Hưng Đạo. Núi Dược Sơn nằm tại phía Nam của đền Kiếp Bạc, với diện tích quy hoạnh trồng thuốc Nam khoảng 10 km².
Ao Cháo: nằm tại phía dưới chân núi Trán Rồng, thuộc địa phận thôn Bắc Đẩu. Tương truyền, Trần Hưng Đạo đã tập trung chuyên sâu quân sỹ để đào ao, đón nước từ hố Máng nước để nấu cháo dưỡng thương cho binh lính. Hiện nay, nơi này chỉ còn sót lại phế tích.
Sông Vang – Xưởng Thuyền: là di tích nằm trên cánh đồng Vạn Yên, cách đền Kiếp Bạc 1km về phía Bắc. Tương truyền, Trần Hưng Đạo đã cho quân sỹ đào sông Vang ở trung tâm đại bản doanh, để làm đường thủy trong nơi trong nước của Thái ấp Vạn Kiếp. Tại sông Vang, Trần Hưng Đạo đã cho xây dựng Xưởng Thuyền để đóng, thay thế sửa chữa và cất giấu thuyền chiến. Hiện nay, hai di tích này chỉ với dấu vết khá mờ nhạt.
Hang Tiền: nằm dưới chân núi Bắc Đẩu, cách đền Kiếp Bạc 500m về phía Bắc. Tương truyền, đó là nơi cất dấu ngân khố của Phủ đệ Trần Hưng Đạo để phục vụ kháng chiến. Hang Tiền rộng khoảng 1ha. Tại nơi này còn dấu tích các vòm hầm đào vào núi, cao 1,5m, rộng 1,3m.
Hố Thóc: cách đền Kiếp Bạc 2km về phía Đông Nam. Tương truyền, khu vực này từng là nơi cất giữ lương thảo. Hiện nay, di tích đã biết thành hư hại, chỉ còn sót lại phế tích.
Viên Lăng: nằm trên gò đất nhỏ, hình tròn trụ, cách đền Kiếp Bạc khoảng 300m về phía Đông Nam. Tương truyền, Trần Hưng Đạo được an táng ở đây.
Núi Trán Rồng: nằm tại phía sau đền Kiếp Bạc. Trên sườn núi xuất hiện nhiều di tích, di chỉ khảo cổ thời Trần…
Sông Lục Đầu – Cồn Kiếm: là nơi đã ra mắt trận Vạn Kiếp lịch sử hào hùng (năm 1285), kết thúc đại chiến tranh xâm lược Đại Việt của quân Nguyên – Mông lần thứ 2. Sông Lục Đầu toạ lạc sách lược rất trọng điểm. Tại đây, Thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức triển khai Hội nghị Bình Than. Trên sông Lục Đầu, trước cửa đền Kiếp Bạc xuất hiện một cồn cát chạy dài, gọi là Cồn Kiếm. Tương truyền, đó là nơi Trần Hưng Đạo thả kiếm xuống sông khi tổ quốc thái bình.
Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc là trung tâm văn hóa truyền thống, tôn giáo – tín ngưỡng lớn ở nơi hướng đông bắc châu thổ Bắc Bộ. Trải qua trên 700 lịch sử hào hùng, tại Khu di tích lịch sử này, các liên hoan truyền thống lịch sử gắn với Khu di tích lịch sử vẫn được giữ, xuất hiện sức thu hút đặt biệt, trở thành tác nhân không thể thiếu trong đời sống văn hóa truyền thống, tâm linh của quần chúng. Hàng năm, hội Côn Sơn (gắn với Trúc Lâm đệ tam Tổ – Huyền Quang) được bắt nguồn từ rằm tháng Giêng và trải dọc qua đến hết tháng Giêng… Tiệc tùng, lễ hội đền Kiếp Bạc (gắn với ngày giỗ của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn) được tổ chức triển khai từ thời điểm ngày 16 tháng 8 và kết thúc vào trong ngày 20 tháng 8 (Âm lịch) hàng năm…
Với những lợi ích lịch sử hào hùng, văn hóa truyền thống và khoa học đặc biệt quan trọng của Khu di tích lịch sử, ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 548/QĐ-TTg , xếp hạng Di tích lịch sử hào hùng và kiến trúc thẩm mỹ Côn Sơn – Kiếp Bạc là di tích vương quốc đặc biệt quan trọng./.