Nằm trên địa phận thị xã Quảng Yên, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Di tích lịch sử vẻ vang Bạch Đằng là khu vực ghi dấu sự kiện quân và dân nhà Trần đã lập nên thành công lẫy lừng – Chiến thắng Bạch Đằng đánh tan quân Nguyên Mông ngày 09/4 (8/3 – Âm lịch) năm 1288.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử vẻ vang, dấu tích của trận chiến Bạch Đằng năm 1288 vẫn tồn tại hiện hữu qua những di tích vượt trội:
Bãi cọc Yên Giang: nằm ở vị trí cửa sông Chanh, dài khoảng 118m, rộng 20m. Phần nhiều những cọc được tìm thấy ở nơi này đều được làm từ thân cây lim hoặc táu, còn để nguyên vỏ. Chiều dài thân cọc từ 2,6m đến 2,8m, phần cọc được đẽo nhọn để cắm xuống lòng sông dài từ 0,5m đến 1m. Hiện nay, bãi cọc Yên Giang đã được phạm vi bảo vệ, xây kè xung vòng quanh, dựng bia reviews di tích.
Bãi cọc đồng Vạn Muối: nằm ở vị trí cửa sông Rút. Trong thời kỳ canh tác, đào ao thả cá, nhân dân đã phát hiện ra được nhiều cọc gỗ cắm đứng và cắm xiên trong nơi đồng Vạn Muối. Một vài cọc đã được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Bạch Đằng, Bảo tàng Hải quân, Bảo tàng Hải Phòng. Hiện nay, bãi cọc thuộc nơi đầm nuôi thủy sản và ruộng canh tác của phường Nam Hòa.
Bãi cọc đồng Má Ngựa: nằm ở vị trí cửa sông Kênh, cách bãi cọc đồng Vạn Muối khoảng 1km về phía Nam, thuộc trung tâm Hưng Học, phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên. Bãi cọc xuất hiện quy mô khoảng 2100m2, trải dài 70m theo chiều Đông – Tây và rộng 30m theo chiều Bắc – Nam. Tỷ lệ phân bổ và độ sâu của cọc không đồng đều.
Đền Trần Hưng Đạo: đó là khu vực lưu niệm vị nhân vật dân tộc, thiên tài quân sự Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Đền tọa lạc trên một doi đất cổ, xuất hiện tổng quy hoạch trên 5000m2, với những hạng mục, như đền chính, nhà bia, nhà soạn lễ và một số trong những hạng mục phụ trợ (đường vào, nghi môn, trụ biểu, sân vườn, mạng lưới hệ thống điện chiếu sáng, tường bao….). Hiện nay, trong đền còn lưu giữ được 9 đạo sắc phong của rất nhiều vua triều Nguyễn phong cho Trần Hưng Đạo và một số trong những hiện vật khác.
Miếu Vua Bà: nằm sát đền Trần Hưng Đạo, thuộc nơi trung tâm của Khu di tích. Tương truyền, đó là miếu thờ bà bán sản phẩm nước, người đã hướng dẫn cho Trần Hưng Đạo biết lịch triều con nước, vị trị lòng sông Bạch Đằng và phương án hỏa công để Trần Hưng Đạo xây dựng trận địa cọc đánh giặc Nguyên Mông. Sau thành công Bạch Đằng năm 1288, Trần Hưng Đạo đã tâu với vua Trần, sắc phong cho bà bán sản phẩm nước là “Vua Bà” và lập đền thờ Bà ngay trên nền quán nước.
Bến đò rừng: là nơi Trần Hưng Đạo chọn làm khu vực phát hỏa làm tín lệnh cho quân sĩ mai phục ở hai bên sông Bạch Đằng hàng loạt tiến công giặc Nguyên Mông. Hiện nay, bến đò cổ đang rất được khôi phục, với chiều rộng là 120m, chiều dài thêm hơn nữa 300m. Đầu bến là một tòa phương đình, gồm 2 tầng, 8 mái, đầu đao uốn cong hình rồng. Sát mặt bến nước xuất hiện tòa khán đình, với kiến trúc 1 tầng mái, vì kèo gỗ lim, xuất hiện 4 đầu đao ở 4 góc mái.
Đình Yên Giang: là nơi thờ Thành hoàng làng Yên Giang. Vào các dịp lễ lớn của làng, dân làng thường rước tượng Trần Hưng Đạo từ đền Trần Hưng Đạo về đây để tế lễ. Đình được dựng trên gò đất cao, xung vòng quanh là ruộng đồng. Hiện nay, trong đình vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật quý hiếm, xuất hiện niên đại từ thời Nguyễn, như bia đá, hoành phi, câu đối, sắc phong.
Đền Trung Cốc: nằm trên một gò đất cao. Tương truyền, khi đi thị sát địa hình để sẵn sàng chuẩn bị cho trận đánh, Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão đã trở nên mắc thuyền ở đây. Sau thành công Bạch Đằng năm 1288, để ghi nhớ sự kiện này, những người dân dân chài ở đây đã lập đền thờ Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão. Trong đền còn phối thờ Yết Kiêu, Dã Tượng và hai người đàn bà của Trần Hưng Đạo là Đệ nhất Quyên Thanh công chúa và Đệ nhị Đại Hoàng công chúa.
Đình Trung Bản: là nơi thờ Trần Hưng Đạo, gồm các hạng mục: tả vu, hữu vu, nghi môn trụ biểu, cuốn thư trấn môn, nhà khách hàng, nhà phụ trợ, sân vườn, tường bao… Trong đình hiện còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật lợi ích, xuất hiện niên đại vào mức cuối thời Hậu Lê, đầu thời Nguyễn, như bộ kiệu bành bát cống, quán tẩy, bia đá, sắc phong…
Đình Đền Công: là nơi thờ những người dân đã hy sinh trong trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288. Kiến trúc của đình khá giản dị và đơn giản, gồm ba gian, hai chái, chiều dài thêm hơn nữa 17m, chiều rộng hơn 5m. Nền đình cao hơn nữa sân 1m, xuất hiện năm bậc thềm đá và hai lan can đá chạm rồng chầu hai bên.
Ngoài một số trong những di tích văn hóa truyền thống vật thể vượt trội kể trên, trong nơi di tích lúc bấy giờ còn lưu giữ được nhiều di tích văn hóa truyền thống phi vật thể có mức giá trị. Tiệc tùng, lễ hội Bạch Đằng được tổ chức triển khai khởi nguồn từ ngày mồng Sáu và kết thúc vào trong ngày mồng Chín tháng Ba (Âm lịch) hằng năm. Ngoài những nghi lễ thường thì, trong hội còn tồn tại các trò diễn, vui chơi dân gian, như hát đúm, chơi cờ người, tổ tôm điếm, đánh đu, đấu vật, chọi gà, đua thuyền… thu hút được sự tâm điểm đặc biệt quan trọng của người dân trong vùng và khách nước ngoài thập phương./.